Pages

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2013

Sâu đục cành trên cây Thanh trà xử lý như thế nào để có hiệu quả cao?

Các cây có múi cam thuộc họ quýt như cam, chanh, quýt, bưởi, bòng, thanh trà... có rất nhiều loại sâu bệnh gây hại, trong đó có nhóm sâu đục cành, đục thân, đục gốc hay còn gọi là sâu Bore là nhóm nguy hiểm nhất.
Mức độ lây lan của nhóm này rất nhanh, có thể dẫn đến huỷ diệt cả vườn cây lớn nhưng rất khó phòng trị vì chúng nằm sâu bên trong cành, thân, gốc cây thuốc hóa học không thể thấm vào bên trong được vì vậy việc phun thuốc  hóa học rất ít có hiệu quả.

Sâu đục cành có tên khoa học là Chelidonium argentatum Dalm, là sâu non của con xén tóc màu xanh nên gọi là xén tóc xanh. Xén tóc xanh thường đẻ trứng vào tháng 5-6 trên các nách lá ngọn cành tăm. Sau 10-12 ngày sâu non nở và bắt đầu gặm vỏ cành để sống, đục phá từ cành nhỏ đến cành lớn và cả thân cây. Từ 8 đến 9 tháng sau, sâu non đục đến cành cấp 1 hoặc cành cấp 2, thậm chí có thể tới thân, tuỳ theo độ dài của cành. Thông thường tập trung là cành cấp 1, sâu non làm một buồng hoá nhộng bằng cách dùng mùn cưa và chất bài tiết vít đường đục lại rồi đục một lỗ ra ngoài, chừa lại vỏ cành để làm cửa vũ hoá sau này. Khoảng tháng 2, tháng 3, sâu non hoá nhộng, tới tháng 4, tháng 5 thì vũ hoá thành con xén tóc xanh bay ra. Vòng đời của sâu là một năm.Trên một thân cây có thể bị hàng chục con sâu đục cành và nếu 2-3 năm liền bị hại thì cây sẽ chết.

Sâu đục thân có tên khoa học là Nadezhdiella cantori Hope, là sâu non của con xén tóc màu nâu nên gọi là xén tóc nâu. Xén tóc nâu thích nơi râm mát, ban ngày ẩn nấp, ban đêm thường tìm đến đẻ trứng vào những kẽ nứt, những chỗ gồ ghề ở thân cây cách mặt đất từ 0,3 đến 1 m. Trong các tháng 5-6-7, sau khi đẻ, 6-12 ngày trứng nở.
Sâu non nở ra chui vào vỏ và phá hoại phần gỗ từ 22 đến 24 tháng, tạo thành những đường đục ngoằn ngoèo không theo qui luật dọc theo thân cây. Sâu hoá nhộng vào khoảng tháng 2 và vũ hoá thành xén tóc nâu vào tháng 3 và tháng 4. Vòng đời của sâu đục thân kéo dài từ 2,5 đến 3 năm.

Sâu đục gốc có tên khoa học là Anoplophora chinensis Forster, còn gọi là xén tóc sao hay xén tóc hoa vì trên toàn thân màu đen của con bọ trưởng thành cánh cứng này có điểm khoảng 30 chấm trắng. Con trưởng thành thường ăn bổ sung bằng các phần non của cây, đặc biệt là rễ non trước khi đẻ trứng vào tháng 5, tháng 6, vũ hoá vào tháng 5-6. Trước khi đẻ, xén tóc sao cắn vào gốc cây một vết hình chữ T ngược rồi đẻ trứng vào đó. Sau 6-12 ngày thì trứng nở, sâu non di chuyển xuống phía dưới gốc, phá hại phần gốc, rễ cây tiếp giáp với thân. Đầu tiên sâu hại vỏ, sau đó đục vào bên trong phần gỗ. Nhiều khi sâu đục cả những rễ to làm cho cây héo toàn bộ, rụng lá và chết. Sâu non phá hại trong 2-3 tháng thì nghỉ đông ở gốc cây. Đến tháng 3, tháng 4 năm sau thì hoá nhộng, tháng 5-6 vũ hoá. Vòng đời của xén tóc sao là một năm.

Biện pháp phòng trừ
Với sâu trưởng thành: Dùng vợt hoặc bắt bằng tay đối với cả 3 loại xén tóc trong thời gian con trưởng thành vũ hoá và đẻ trứng từ tháng 4 đến tháng 6 hàng năm.

Diệt sâu non bằng cách bẻ cành non bị héo (đối với sâu đục cành) vào các tháng 5, 6, 7. Những cành con bị sâu tiện một vòng tròn quanh vỏ sau vài ngày thường bị héo. Khi lá mới chớm héo, còn màu xanh nhưng mép lá hơi uốn cong, dùng sào dài có chạc khẽ vặn, cành sâu sẽ gãy dễ dàng, sâu sẽ rơi ra và chết. Nếu cành đã héo khô thì sâu non đã đục trở xuống phía dưới vòng tròn. Có thể cắt hoặc bẻ xuống dưới một đoạn  có thể loại bỏ được sâu non. Kinh nghiệm nhiều gia đình cho thấy biện pháp bẻ cành héo triệt để có thể hạn chế được sự gây hại của sâu trên 90%. Với các con sâu non đã đục vào trong cành lớn, thân cây hoặc gốc cây thì có thể dùng một sợi dây thép nhỏ và cứng như dây phanh xe đạp để làm thành cái móc nhọn như lưỡi câu, luồn vào trong để ngoáy và kéo sâu non qua các lỗ đùn phân và mạt cưa trên thân, cành và gốc cây.

Quét thuốc: Sau khi thu hoạch quả, quét vôi hoặc Boóc-đô (pha tỉ lệ: 1 phần CuSO4 + 1 phần vôi tôi + 20 phần nước) vào gốc cây, thân cây từ 1m trở xuống để phòng các loại nấm bệnh và hạn chế việc đẻ trứng của các loại xén tóc.

Món ngon miền Tây: Thanh trà


Cây thanh trà trông giống như cây xoài, trái tương tự quả chanh, vỏ màu xanh, chín có màu vàng cam bóng láng, cơm mềm vị chua ngọt rất hấp dẫn và được mọi người, nhất là trẻ con ưa thích.

Thanh Trà
Có dịp về miền Tây vào mùa hè, khi xe dẫn qua cầu Cần Thơ (phía Bình Minh), du khách sẽ thấy những sạp bán hàng 2 bên lề đường treo lủng lẳng những chùm thanh trà màu vàng cam thật bắt mắt, khiến du khách không cưỡng lại được phải dừng xe mua vài ký ăn và làm quà.
Thanh trà (còn gọi là sơn trà) là loài cây hoang dại mọc nhiều ở vùng núi Thất Sơn (An Giang), vùng rừng Phú Quốc (Kiên Giang) và xã Đông Thành (Bình Minh – Vĩnh Long).
Cây thanh trà trông giống như cây xoài, trái tương tự quả chanh, vỏ màu xanh, chín có màu vàng cam bóng láng, cơm mềm vị chua ngọt rất hấp dẫn và được mọi người, nhất là trẻ con ưa thích. Thời vụ trái chín vào khoảng tháng giêng đến cuối tháng 3 âm lịch.
Thanh trà có 2 loại: chua và ngọt. Do đó, tùy theo khẩu vị của mọi người, du khách có thể chọn lựa. Nhưng để chắc ăn, ta cần nếm thử hương vị đặc trưng của trái rồi hãy mua. Giá thanh trà hiện nay khoảng 20.000 – 25.000đ/kg.
Thanh Trà
Thanh Trà
Có nhiều cách để thưởng thức hương vị của thanh trà. Cách thông thường, trái thanh trà sống (xanh) nấu canh chua (canh chua cá lóc, cá ngát hoặc tép). Mùi vị chua thanh của tô canh chua nấu với trái thanh trà rất đặc trưng, khác hẳn vị chua của me chín. Còn cách thưởng thức khác mà lứa tuổi teen ưa chuộng là trái thanh trà chín chấm muối ớt. Cầm trái thanh trà chín trong lòng bàn tay “vò” cho trái mềm, lột vỏ chấm vào chén muối ớt. Vị chua, ngọt, thơm của thanh trà; vị mặn, cay của muối ớt, và những cái “hít hà” vì cay nồng lên lỗ mũi, thật thú vị!
Riêng những người lớn tuổi, thư thả hơn khi về nhà, có cách thưởng thức như: thanh trà chín cho vào rổ rửa sạch. Dùng dao bén gọt bỏ vỏ, cho vào ly (khoảng 2 trái) cùng vài muỗng đường cát, một tí muối (cho có hương vị đậm đà). Lấy muỗng cà phê dầm cho cơm thanh trà nhừ ra với đường. Cho thêm tí nước vào khuấy cho hòa tan. Cuối cùng, bỏ vài viên đá vào là ta có được món thanh trà dầm đá giải nhiệt tuyệt hảo. Vị chua, ngọt của thanh trà, mát lạnh của nước đá như lan tỏa vào cổ họng, khiến ta cảm thấy như xua tan mọi mệt nhọc của chuyến du hành.
Cây trái nào cũng có mùa, muốn có trái thanh trà ăn dài dài cho “đỡ ghiền”, còn có cách chế biến khác nữa là làm mứt. Tuy hơi nhọc công một chút, nhưng vẫn đảm bảo chất lượng. Mua vài ký thanh trà chín về nhà rửa sạch, gọt thành từng miếng như gọt xoài (để cả vỏ), bỏ hạt, cứ một ký cơm thanh trà trộn vào ½ kg đường cát trắng cho hòa tan. Cuối cùng, cho hỗn hợp vào nồi và đặt lên bếp với ngọn lửa liu riu cho đến khi đường cô lại sền sệt, nhắc xuống để nguội cho vào lọ ăn dần.

Thanh trà chín vàng miền Cửu Long


Cứ sau Tết âm lịch đến tiết thanh minh, trái thanh trà lại chín vàng cây, quả căng tròn đẹp kéo khách đi đường dừng chân ngắm nhìn. Thương lái đến vườn mua sỉ mang lên TP HCM, Vũng Tàu và bày ở dọc quốc lộ 1A để bán.

Những ngày này, người qua cầu Cần Thơ, phía bờ Bình Minh - Vĩnh Long, thích thú trước những điểm bán thanh trà màu sắc vàng ươm, quả căng tròn, đẹp như mơ.
Thanh trà là một loại cây rất kén đất, hiện trồng tập trung tại ấp Đông Hưng I và 2, thuộc xã Đông Thành, huyện Bình Minh, Vĩnh Long. Cây cao và to giống như xoài nhưng trái chỉ lớn bằng quả chanh. Khi sống trái màu xanh, lúc chín chuyển sang màu vàng óng mượt, căng tròn và mọng nước, nhìn vào thấy phát thèm. Khi bóc vỏ ra, thịt có màu vàng rực và thơm ngon, hấp dẫn như mùi xoài nhưng vị chua - ngọt.
Tại Hà Tiên, Kiên Giang cũng có nhiều cây thanh trà. Chúng mọc thành rừng, cho nên còn gọi là sơn trà, nhiều nhất dọc theo chân núi Tô Châu nhưng trái nhỏ và chua hơn thanh trà Đông Hưng.
Ông Lê Văn Tài với cây thanh trà 4 năm tuổi trong vườn nhà. Ảnh: Thiên Lộc.
Ông Lê Văn Tài với cây thanh trà 4 năm tuổi trong vườn nhà. Ảnh: Thiên Lộc.
Mùa xoài cũng là mùa của thanh trà, kéo dài từ sau Tết cho đến hết tháng 3 âm lịch. Ông Lê Văn Tài, 84 tuổi, người có trên 10 công thanh trà trồng xen với các loài cây khác cho biết: Cây thanh trà đã có mặt tại Đông Hưng từ hơn một thế kỷ nay do một vị tiền bối trong làng mang về trồng. Có cây cho trái chua, có cây trái vừa ngọt vừa chua. Hiện cây tổ vẫn còn sống và hằng năm ra trái sum suê. Mãi sau này nông dân mới biết cách chọn những cây trái ngọt để nhân giống. Nếu chiết cành, chỉ sau 3 năm cây sẽ cho trái thay vì trồng hạt phải mất 10 năm.
Thế là trong vòng hai mươi năm trở lại đây, cây thanh trà đã bắt đầu được nhân rộng tại ấp Đông Hưng I và II, nay mở rộng thêm ở ấp Đông Hòa, Mỹ Hòa và một số nơi trong huyện Bình Minh. Tại đây, có người trồng vài ba cây, có người vài chục cây đến vài trăm cây.
Thanh trà cho trái chín vàng ươm, chuẩn bị được thương lái chuyển đi các nơi. Ảnh: Thiên Lộc.
Thanh trà cho trái chín vàng ươm, chuẩn bị được thương lái chuyển đi các nơi. Ảnh: Thiên Lộc.
Những gia đình tiên phong mở đường cho cây thanh trà đi lên, thu nhập mỗi năm trên vài chục triệu đồng là ông Năm Trượng, ông Sáu Vẹn, ông Tư Khải, ông Mười Tài… Chị Trần Thị Ba cho biết vườn chị có 60 cây, mỗi năm thu trên vài chục triệu đồng. Ngoài bán trái, nhiều chủ vườn còn bán thêm cây giống nên thu nhập rất tốt.
Vài năm trở lại đây do nhu cầu tiêu thụ mạnh, được giá nên kích thích nhiều nông dân đầu tư cho cây thanh trà. Đặc biệt năm nay thanh trà lại được giá, 15.000-20.000 đồng một kg. Những năm thất mùa hoặc đầu vụ, giá có khi vọt lên đến 25.000 đồng một kg. Bình quân một cây thanh trà trưởng thành có thể cho trên 200 kg trái.
Thanh trà ngoài ăn tươi, bà con còn dùng trái sống để nấu canh chua thay cho me rất ngon, trái chín để làm rượu, đặc biệt là cho trái vào ly khuấy chung với đường, dùng lạnh như một món giải khát tuyệt hảo trong mùa hè.
Thanh trà được bày bán dọc quốc lộ 1A đoạn qua đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Thiên Lộc.
Thanh trà được bày bán dọc quốc lộ 1A đoạn qua đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Thiên Lộc.
Hiện tại Đông Hưng lúc nào cũng rộn ràng tất bật cảnh trèo cây hái trái, phân loại và đóng thùng trước khi đưa đi tiêu thụ. Trong những ngày chính vụ, lực lượng hái trái và vận chuyển lên tới vài chục người, đa số là trẻ em và phụ nữ. Nhiều thương lái cũng có mặt tại vườn để thu gom hàng chở đi phân phối, nơi tiêu thụ mạnh nhất là TP HCM, Vũng Tàu và một số chợ miền Tây.
Thiên Lộc

Cây Thanh trà Bình Minh vào mùa thu hoạch


Hiện nay, người dân thị xã Bình Minh (Vĩnh Long) đang vào mùa thu hoạch rộ trái thanh trà. Tuy sản lượng và diện tích trồng nơi đây không lớn như các loại cây ăn trái khác như: Bưởi, cam, sầu riêng,… nhưng với đặc điểm trái nhỏ, có hột như xoài, vỏ và ruột màu vàng khi chín nên thu hút được nhiều khách đến mua.

Trái thanh trà được người dân huyện Bình Minh bày bán.
Trái thanh trà được người dân huyện Bình Minh bày bán.
Người dân thị xã Bình Minh trồng 3 loại cây thanh trà: thanh trà ngọt, thanh trà lai ngọt và thanh trà chua. Theo người dân địa phương, giá bán thanh trà năm nay cao hơn các năm trước; cụ thể, loại thanh trà ngọt có giá khoảng 100.000đồng/kg, thanh trà lai ngọt có giá khoảng 80.000đồng/kg và thanh trà chua có giá 45.000đồng/kg.
Bà Phan Thị Tươi, một người dân trồng thanh trà ở xã Thuận An, cho biết: “Gia đình tôi trồng 50 cây thanh trà, với chi phí bỏ ra 5 triệu đồng để chăm sóc, mỗi vụ gia đình tôi thu nhập cả trăm triệu đồng. Trồng thanh trà không tốn nhiều công chăm sóc, có thể trồng xen canh với các cây măng cụt, chanh hoặc trồng trên bờ ruộng. Không chỉ có gia đình tôi mà nhiều hộ dân trong xã Thuận An đều đầu tư vào cây thanh trà trong nhiều năm qua nên đời sống dần được cải thiện, xây dựng được nhà cửa khang trang”.
Còn ông Trần Thạnh Vẹn, xã Đông Thành, tâm sự: “Gia đình tôi trồng thanh trà chua trên 5 công (5.000m2) vườn, mỗi khi vào mùa thu hoạch, nhiều thương lái tự tìm đến mua và vận chuyển đi nên chúng tôi tốn ít chi phí. Tuy nhiên, giá thanh trà chua vẫn còn thấp nên tôi đang nhân rộng loại thanh trà ngọt vì loại thanh trà này rất được người dân ưa chuộng và không đủ bán.
Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thị xã Bình Minh, cây thanh trà trên địa bàn huyện thường được người dân trồng xen canh với các loại cây khác, tập trung nhiều nhất ở xã Đông Thành, Mỹ Hòa, Thuận An. Những năm gần đây, nhận thấy hiệu quả kinh tế từ thanh trà, nhiều bà con mạnh dạn mua giống về trồng và trở nên giàu có. Đặc biệt, loại thanh trà ngọt, bà con đang mở rộng diện tích vì thương lái các nơi đang dồn về mua với giá rất cao tại vườn.
Được biết, ngoài gọt vỏ ăn như xoài, dầm nước đá để uống, nhiều người dân còn đem trái thanh trà làm mứt hoặc ngâm rượu cho thơm. Hy vọng, trong thời gian tới, loại cây này tiếp tục mang lại lợi nhuận kinh tế cao cho bà con nơi đây.


KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC CÂY THANH TRÀ


Cây Thanh Trà có tên khoa học Bouea gandaria Blume hay Bouea macrophylla Griff., thuộc họ Anacardiaceae, bộ Sapindales tên tiếng anh Marian plum, Gandaria, Marian mango hay Plum mango, là cây ăn trái nhiệt đới có nguồn gốc ở khu vực Đông Nam Á. Ở Thái Lan, trái Thanh Trà được người tiêu dùng rất ưa chuộng, diện tích trồng Thanh Trà ở Thái tăng nhanh từ năm 1998. Năm 2001, chính phủ Thái bắt đầu xúc tiến quảng bá xuất khẩu loại trái cây này. Hiện nay, thanh trà Thái được xuất khẩu sang nhiều nước ở châu âu và được bày bán hầu hết trong các siêu thị ở Anh Quốc.


Cây thanh trà dễ trồng, ít nhiễm sâu bệnh hại, chịu hạn rất tốt, các giống thanh trà thương mại có nguồn gốc ở Thái Lan, Mỹ hầu hết đều có dạng quả dài, mùi vị thơm ngon, thịt trái có nhiều chất bổ dưỡng, màu sắc và mẫu mã trái đẹp nên rất hấp dẫn người tiêu dùng. Ở nước ta mùa thu hoạch trái thanh trà sớm hơn so với nhiều loại trái cây khác nên trái dễ bán được giá cao.

Thanh Trà ra hoa 2 đợt cách nhau khoảng 1 tháng, thời gian thu hoạch quả kéo dài từ giữa tháng 12 đến tháng 2 âm lịch. Theo tác giả (Chairuangyod, 1996) thanh trà là loại trái cây có nhiều tìm năng trong tương lai và là một trong những loại trái cây mang lại nguồn thu nhập cao nhất cho nhà vườn ở Thái.
KỸ THUẬT TRỒNG
-Đất trồng:
Cây thanh trà thích nghi rộng nên có thể trồng được trên nhiều loại đất khác nhau như: đất đỏ bazan, đất thịt, thịt pha cát, đất phù sa Đồng Bằng Sông Cửu Long,…
-Khoảng cách trồng:
Khoảng cách trồng thích hợp trên đất có độ phì thấp là: 7m x 7m (200 cây/ha), 8m x 8m (156 cây/ha) Đối với nền đất có độ phì cao trồng với khoảng cách thưa hơn 9m x 9m (123 cây/ha).
-Chuẩn bị hố trồng
Hố trồng đào 50 cm x 50 cm x 50 cm, khi đào hố nên để riêng lớp đất trên mặt ra một bên và đất ở lớp phía dưới ra một bên, bón lót mỗi hố 10-12 kg phân chuồng đã ủ hoai, 150-250 g Super lân, trộn đều với lớp đất mặt xung quanh, trộn thêm với 50 g Basudin 10H và 0,5 kg vôi để phòng trừ mối kiến và nâng cao độ pH đất. Ngoài vật liệu bón lót trên không nên dùng phân hữu cơ chưa hoai hay tro bếp bón lót dễ gây thối rễ và làm mặn đất.
-Trồng cây
Dùng tay móc một lỗ nhỏ giữa hố trồng sâu hơn chiều cao túi đựng thanh trà khoảng 2-3 cm, kích thước to hơn bầu cây đôi chút, để túi cây trên mặt đất, dùng dao sắc rạch một đường xung quanh túi nilon, cách đáy 2-3 cm, bóc lấy đáy túi ra. Xem xét bộ rễ, cắt bỏ tất cả các phần rễ cái, rễ con ăn ra khỏi bầu đất, sau đó đặt vào hố trồng, lấp đất và rút bọc nilon ra. Dùng tay lấp và ém chặc lớp đất xung quanh để cố định gốc cây con không bị gió lay, chú ý đặt cây vào hố trồng sao cho sau khi trồng cổ rể ngang bằng với nền đất xung quanh, không trồng âm hay lấp phần thân cây. Sau khi trồng cần làm bồn đường kính khoảng 1 m để nước tưới không chảy ra ngoài. 
Trồng xong lấy cọc cắm, buộc thân cây vào cọc tránh gió lay gốc, nên buộc lỏng bằng dây nilon. Nếu trồng vào mùa mưa thanh trà không cần che mát như sầu riêng hay măng cụt.
CHĂM SÓC

-Tưới nước:
Tưới nước ngay sau khi trồng, trồng vào đầu hay giữa mùa mưa sẽ đỡ công tưới. Nếu trồng trong mùa khô phải tưới nước ít nhất 1 tháng đầu, nên tưới bằng vòi phun với lượng nước tưới vừa đủ.

-Cắt tỉa cành:
Thanh Trà là loại cây đa thân, cây tự phân nhánh rất đều do đó việc cắt tỉa cành, tạo tán trong thời kỳ kiến thiết bơ bản đơn giản hơn so với các cây khác. Định kỳ 2-3 tháng dùng kéo tỉa bỏ bớt các cành mọc rậm rạp, tạo cho cây có bộ tán cân đối. Khi cây đã cho trái sau mùa thu hoạch, cắt tỉa bớt các nơi có mật độ cành mọc dày, tạo cho tán cây thông thoáng cây sẽ cho năng suất cao ở vụ kế tiếp.

-Bón phân 
Hàng năm vào đầu mùa mưa bón mỗi gốc 15-25 kg phân chuồng hoai/gốc, mục đích bổ sung thêm các chất dinh dưỡng vi lượng, độ mùn, tăng độ phì và tăng khả năng giữ của đất trong mùa khô. Bón bằng cách rãi đều lên mặc đất xung quanh mặc bồn.

Phân hóa học:
Năm thứ 1: Sau khi trồng 20 ngày bón phân NPK(15-15-15) hay NPK(16-16-8) 100-150g/gốc, bón bằng cách rải đều trên mặc đất xung quanh tán, tạo điều kiện cho rễ cây trồng hấp thu dinh dưỡng hiệu quả nhất, sau khi bón dùng cào cỏ cào nhẹ lớp đất mặc để phân dễ thấm sâu, sau đó phủ lên một lớp đất mỏng. Có thể pha loãng phân với nước tưới hiệu quả sẽ cao hơn. Sau đó định kỳ 3-4 tháng bón 1 lần, mỗi lần 100 - 200g/gốc kết hợp phun thêm phân bón lá để bổ sung thêm dinh dưỡng cho cây.
Năm thứ 2: dùng phân NPK trên bón liều lượng 0,5-1 kg, chia làm 2 lần bón (đầu và cuối mùa mưa).
Năm thứ 3 và thứ 4: cây bắt đầu cho trái bón mỗi gốc 1,5-3 kg chia làm 3 lần bón: lần 1 sau thu hoạch, lần 2 trước ra hoa, ở lần bón phân 2 có thể trộn thêm 0,5 kg phân lân nung chảy nhằm bổ sung thêm lân, canxi, megiê và một số nguyên tố trung vi lượng khác cho cây, lần 3 bón sau khi trái đậu 1 tháng. Khi cây cho trái ổn định mỗi năm bón 3-4 kg NPK, cộng thêm mỗi gốc 0,5-1 kg phân kali (K2SO4), phân kali sulphat bón trước thu hoạch khoảng 20 ngày bằng cách rãi đầu khắp mặt bồn sau đó tưới nước 2-3 lần để phân thấm sâu sẽ làm tăng đáng kể độ ngọt và màu màu sắt thịt quả.
Thu hoạch quả:
Cây thanh trà ghép cho trái sau 3-4 năm trồng, cây ≥ 7 năm tuổi cho năng suất 120-200 kg/cây. Trái thanh trà khi chín có thể neo trên cây 12-15 ngày. Dùng dụng cụ thang, kéo cắt trái và túi lưới để thu hoạch quả, hạn chế trèo lên cây vì dễ làm giãn, gãy cành sẽ ảnh hưởng đến năng suất vụ sau. Khi cắt trái nên chừa 1-3 lá ở cuốn trái, trái sẽ tươi lâu và dễ bán. Sau khi hái nên phân loại những trái có cùng kích thước và độ chín. Sau khi phân loại, trái được cho vào thùng xốp, mỗi thùng 20-25 kg để chuyển đến các khách hàng và đại lý tiêu thụ. 

Cây thanh trà dễ trồng, ít nhiễm sâu bệnh hại, chịu hạn rất tốt


CÂY THANH TRÀ

Cây Thanh Trà có tên khoa học Bouea gandaria Blume hay Bouea macrophylla Griff., thuộc họ Anacardiaceae, bộ Sapindales tên tiếng anh Marian plum, Gandaria, Marian mango hay Plum mango, là cây ăn trái nhiệt đới có nguồn gốc ở khu vực Đông Nam Á. Ở Thái Lan, trái Thanh Trà được người tiêu dùng rất ưa chuộng, diện tích trồng Thanh Trà ở Thái tăng nhanh từ năm 1998. Năm 2001, chính phủ Thái bắt đầu xúc tiến quảng bá xuất khẩu loại trái cây này. Hiện nay, thanh trà Thái được xuất khẩu sang nhiều nước ở châu âu và được bày bán hầu hết trong các siêu thị ở Anh Quốc.

Cây thanh trà dễ trồng, ít nhiễm sâu bệnh hại, chịu hạn rất tốt, các giống thanh trà thương mại có nguồn gốc ở Thái Lan, Mỹ hầu hết đều có dạng quả dài, mùi vị thơm ngon, thịt trái có nhiều chất bổ dưỡng, màu sắc và mẫu mã trái đẹp nên rất hấp dẫn người tiêu dùng. Ở nước ta mùa thu hoạch trái thanh trà sớm hơn so với nhiều loại trái cây khác nên trái dễ bán được giá cao.

Thanh Trà ra hoa 2 đợt cách nhau khoảng 1 tháng, thời gian thu hoạch quả kéo dài từ giữa tháng 12 đến tháng 2 âm lịch. Theo tác giả (Chairuangyod, 1996) thanh trà là loại trái cây có nhiều tìm năng trong tương lai và là một trong những loại trái cây mang lại nguồn thu nhập cao nhất cho nhà vườn ở Thái. 
H1: Thanh trà ngọt (hạt lép)
H2: Thanh Trà Ngọt (quả chùm)
H3: Hoa Thanh Trà Ngọt
H4: Thanh Trà Mỹ (trái lớn)
H5: Thanh Trà Thái (trái lớn)
H6: Trái Thanh Trà Trưởng Thành
H7: Thịt Quả Thanh Trà

Mùa Thanh trà dưới chân cầu Cần Thơ


(Dân trí) -Khoảng tháng 3 ai có dịp về miền Tây khi xe dẫn qua cầu Cần Thơ (phía Bình Minh, Vĩnh Long), du khách sẽ thấy những “đòn gánh” nặng trĩu những chùm Thanh trà màu vàng cam, bắt mắt. Nếu người nào lần đầu tiên thấy, chắc hẳn sẽ mua vài ký Thanh trà thưởng thức.

Vào những ngày này, dọc hai bên đường dẫn lên cầu Cần Thơ (bờ Vĩnh Long) du khách sẽ thấy những sạp bán hàng 2 bên lề đường treo lủng lẳng những chùm thanh trà màu vàng cam thật bắt mắt, khiến du khách không cưỡng lại được phải dừng xe mua vài ký ăn và làm quà cho người thân, bạn bè.
Chị Nguyễn Thị Ni – một người bán trái Thanh trà dưới chân cầu Cần Thơ cho biết: “Cây thanh trà mỗi năm ra trái có một mùa vào khoảng tháng 3 và kéo dài đến hết tháng 4. Trái Thanh trà có giống loại ngọt, có giống loại chua nên khi khách mua mình hỏi kỹ để bán cho người ta. Thông thường nếu khách mua về ăn thì chọn loại ngọt, một số người mua trái Thanh trà về nấu canh chua, làm nước uống thì mua loại chua.”
Theo chị Ni, năm nay giá Thanh trà mua tại vườn cao hơn năm rồi hơn 2 lần. Theo chị Ni năm rồi chỉ 7.000 – 8.000 đồng/kg, năm tay tăng lên từ 20.000 – 25.000 đồng/kg. Bởi vậy sau khi lật lá, bỏ trái xấu thì các tiểu thương phải bán lại cho khách từ 30.000 – 35.000 đồng/kg thì mới có lời.
Chị Nga – có thâm niên bán trái thanh trà hơn 3 năm nay cho biết: “Ban đầu tui để nguyên trái trong xề bán nhưng thấy không hiệu quả nên tui và mấy đứa con chịu khó cắt bỏ lá và kết từng trái lại thành từng chùm, mỗi chùm độ 1 – 1,2kg rồi treo lên cây. Có lẽ vì màu vàng của trái Thanh trà và cách tiếp thị đập vào mắt người đi đường nên 1,2 năm gần gây người ta mua trái thanh trà nhiều lắm. Bời vậy, vào mùa thanh trà, đoạn đường hai bên cầu bây giờ có hơn 50 người treo Thanh trà lủng lăng trên cây bán như tui.”
Được biết cây Thanh trà (còn gọi là sơn trà) là loài cây hoang dại mọc nhiều ở vùng núi Thất Sơn (An Giang), rừng Phú Quốc (Kiên Giang) và xã Đông Thành (Bình Minh – Vĩnh Long). Cây thanh trà trông giống như cây xoài, trái tương tự  quả chanh, vỏ màu xanh, chín có màu vàng cam bóng láng, cơm mềm vị chua ngọt rất hấp dẫn và được mọi người, nhất là trẻ con ưa thích. Thời vụ trái chín vào khoảng tháng giêng đến cuối tháng 3 âm lịch.
Có nhiều cách để thưởng thức hương vị của thanh trà. Cách thông thường, trái Thanh trà sống (xanh) nấu canh chua (canh chua cá lóc, cá ngát hoặc tép). Mùi vị chua Thanh của tô canh chua nấu với trái thanh trà rất đặc trưng, khác hẳn vị chua của me chín. Còn cách thưởng thức khác mà lứa tuổi teen ưa chuộng là vò trái Thanh trà cho mềm rồi chấm muối ớt ăn. Vị chua, ngọt của Thanh trà; vị mặn, cay của muối ớt hoà chung nồng lên lỗ mũi, cũng thật thú vị.
Mang Thanh trà ra cầu Cần Thơ bán
Mang Thanh trà ra cầu Cần Thơ bán
Cắt bỏ hết lá
Cắt bỏ hết lá
Cắt bỏ hết lá
Buộc lại thành từng chùm thế này, mỗi chùm từ 1 - 1,2 kg
Buộc lại thành từng chùm thế này, mỗi chùm từ 1 - 1,2 kg
Người dân buộc trái Thanh trà thành từng chùm rồi treo lủng lẳng trên cây, bày bán
Người dân buộc trái Thanh trà thành từng chùm rồi treo lủng lẳng trên cây, bày bán
Theo chị Ni, mỗi ngày chị bán được từ 15 - 20 kg trái Thanh Trà
Theo chị Ni, mỗi ngày chị bán được từ 15 - 20 kg trái Thanh Trà
Những đòn gánh nặng trĩu trái Thanh Tra vàng cam bắt mắt
Những đòn gánh nặng trĩu trái Thanh Tra vàng cam bắt mắt
Những đòn gánh nặng trĩu trái Thanh Tra vàng cam bắt mắt
Những đòn gánh nặng trĩu trái Thanh Tra vàng cam bắt mắt

Những đòn gánh nặng trĩu trái Thanh Tra vàng cam bắt mắt
Nhiều khách đi đường ghé mua, một số người vì lạ, một số khác thì thích vị chua ngọt của trái Thanh trà

Nguyễn Hành

CÔNG NGHỆ, KỸ THUẬT TƯỚI TIẾT KIỆM NƯỚC CHO NHỮNG VÙNG KHAN HIẾM NƯỚC Ở VIỆT NAM


Tóm tắt: Ưu việt nổi bật của công nghệ tưới tiết kiệm nước là ít tốn nước, quản lý vận hành đơn giản, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, giảm công tưới, thuận tiện cho việc cơ giới hoá và tự động hoá...vv. Đây cũng là kỹ thuật quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế tưới nước cho các loại cây trồng thông qua việc lựa chọn và áp dụng phương pháp, kỹ thuật tưới thích hợp vì các phương pháp tưới tại mặt ruộng đóng vai trò thiết yếu trong việc cung cấp, phân bố nước trực tiếp đến cây trồng và quyết định lượng nước tổn thất mặt ruộng nhiều hay ít. Bài báo giới thiệu công nghệ, kỹ thuật tưới tiết kiệm nước cho những vùng khan hiếm nước ở Việt Nam.
 Abstract: The outstanding advantage of economical Irrigation Technology is less water usage , simple operation and management, yield and quality increase, less labor works and convenient for mechanization and modernization…ect. This is also  an important technique to enhance the efficiency of irrigation for some kinds of plants through the methods selection and application, suitable irrigation technique since irrigation methods play an important role in water supply and distribution directly to the plants and to decide the small or big water loss quantity. The paper has presented the economical irrigation technology for water shortage areas in Vietnam.
 I. Đặt vấn đề
Xu hướng phát triển thủy lợi của nhiều nước hiện nay là khai thác tốt hệ thống các công trình hiện có, tăng cường các phương pháp, kỹ thuật tưới theo chiều sâu để nâng cao hiệu quả kinh tế thông qua việc tăng hiệu quả sử dụng nước. Một trong những biện pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế tưới nước cho các loại cây trồng là việc lựa chọn và áp dụng phương pháp, kỹ thuật tưới thích hợp vì các kỹ thuật tưới tại mặt ruộng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp, phân bố nước trực tiếp đến cây trồng và quyết định lượng nước tổn thất mặt ruộng nhiều hay ít. Với các phương pháp, kỹ thuật tưới thông thường (tưới cổ truyền) hiện nay thì lượng nước tổn thất còn rất lớn.
Mục đích cơ bản của tưới nước là đưa đủ nước vào trong đất để đảm bảo cho cây trồng sinh trưởng, phát triển tốt nhất. Với các kỹ thuật tưới đã được phổ biến cho cây trồng cạn trước đây thường là không duy trì được độ ẩm theo yêu cầu thích hợp mà phạm vi thay đổi độ ẩm trong đất khá lớn, cao hoặc thấp hơn so với độ ẩm thích hợp, gây bất lợi cho quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng. Đối với các vùng khí hậu khô hạn, hoặc bán khô hạn, chỉ có tưới nước mới có thể duy trì được sự phát triển nông nghiệp, vấn đề nước tưới ở đây cũng trở nên cấp thiết hơn ở bất cứ nơi nào khác. Kỹ thuật tưới tiết kiệm nước là kỹ thuật tưới cung cấp nước hiệu quả nhất, góp phần tăng năng suất và sản lượng cây trồng một cách đáng kể. Vì vậy yêu cầu phát triển công nghệ tưới tiết kiệm nước là rất cần thiết, sẽ mở ra triển vọng to lớn trong việc phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả, rau màu và các loại cây có giá trị kinh tế cao trên các vùng khan hiếm nước ở Việt Nam.
 II. Khái niệm về kỹ thuật tưới tiết kiệm nước
Như chúng ta đã biết một trong những nhược điểm của tưới cổ truyền là vấn đề lãng phí nước, gây đóng váng, xói mòn đất, do tưới một lúc quá nhiều nước, hoặc là nước ngấm không kịp tạo thành dòng chảy mặt, hoặc là đất ngấm quá lớn, đưa nước và chất hữu cơ xuống sâu khỏi tầng rễ cây, lãng phí. ở đây công nghệ tưới tiết kiệm nước là tưới vừa đúng với nhu cầu nước của cây trồng, không có lượng nước thừa cũng như tổn thất trong quá trình tưới. Nhờ kết cấu đơn giản và vận hành tiện lợi nên tưới tiết kiệm nước có thể tăng được số lần tưới lên tùy ý và giảm khối lượng nước tưới mỗi lần.
Kỹ thuật tưới tiết kiệm nước - tên quốc tế còn được gọi là tưới cục bộ (Locolized Irrigation System) hoặc được gọi là hệ thống tưới ít nước (Low Volume Irrigation System) được đặc trưng bởi sự cung cấp thường xuyên một khối lượng nước hạn chế được kiểm soát để tưới cho một bộ phận tầng đất canh tác -vùng hoạt động hữu hiệu của bộ rễ cây - nhằm sử dụng tối ưu lượng nước tưới. Sau hơn 20 năm nghiên cứu và sau nhiều cố gắng cải tiến, hoàn thiện kỹ thuật tưới tiết kiệm nước, người ta đã kết luận rằng, nó hoàn toàn có thể thay thế được các kỹ thuật tưới cổ truyền. Khi được thiết kế và quản lý thích hợp, kỹ thuật tưới tiết kiệm nước sẽ đạt được hiệu quả rất to lớn về phương diện cấp nước, phân phối nước và rất lý tưởng trong việc kết hợp cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng cũng như việc cơ giới hoá, tự động hoá các khâu tưới nước và chăm sóc.
Phương pháp tưới là cung cấp nước cho cây trồng từ 1 hệ thống đường ống thông qua các thiết bị tưới và chỉ làm ướt từng khoảng đất nhỏ ở gốc cây trồng (phần hoạt động của bộ rễ). Các thiết bị tưới là thành phần đặc trưng nhất của hệ thống tưới. Do vậy, căn cứ vào đặc tính của thiết bị tưới và hình thức phân phối nước từ thiết bị tưới mà kỹ thật tưới tiết kiệm nước có thể được phân chia ra 3 loại : Tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa cục bộ, tưới ngầm cục bộ.
+ Tưới nhỏ giọt là kỹ thuật tưới cung cấp nước vào đất dưới dạng các giọt nước nhỏ ra từ thiết bị tạo giọt đặt trên mặt đất gần gốc cây.
+ Tưới phun mưa cục bộ là kỹ thuật tưới cung cấp nước cho cây trồng dưới dạng các hạt mưa hoặc hạt sương rơi trên một diện tích nhỏ xung quanh gốc cây trồng.
+ Tưới ngầm cục bộ là kỹ thuật tưới đưa nước vào đất dưới dạng các giọt nước ra thường xuyên từ thiết bị tưới đặt dưới mặt đất ở vùng rễ cây hoạt động.
 III. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng tưới tiết kiệm nước trên thế giới và ở việt nam.
Công nghệ, kỹ thuật tưới tiết kiệm nước lần đầu tiên được sử dụng trong các nhà kính ở nước Anh vào cuối năm 1940. Trong những năm của thập kỷ 50, nhiều hệ thống tưới tiết kiệm nước đã được áp dụng rộng rãi trên các cánh đồng ở Israel.Tiếp theo, cùng với công cuộc nghiên cứu phát triển kỹ thuật tưới nhỏ giọt ở Mỹ và Israel trong những năm 60 là một quá trình phát triển ứng dụng và thay thế các kỹ thuật truyền thống bằng các kỹ thuật công nghệ tưới hiện đại, tiết kiệm nước. Việc nghiên cứu ứng dụng thành công các đường ống và thiết bị tưới bằng nhựa của Israel đã mở ra một giai đoạn mới cho công nghệ tưới tiết kiệm nước trên toàn cầu. Diện tích canh tác được tưới bằng kỹ thuật, công nghệ tưới tiết kiệm nước trên thế giới không ngừng tăng lên. Mỹ, Israel, úc, ý, áo, Tây Ban Nha, Hungary, Đức vv...  là những nước trên thế giới có nhiều kinh nghiệm và thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu, áp dụng công nghệ kỹ thuật tưới tiết kiệm nước.
Đối với Việt Nam, công nghệ tưới tiết kiệm nước được bắt đầu từ năm 1993 và chủ yếu là thực nghiệm tại các cơ sở sản xuất. Hệ thống tưới tiết kiệm nước ở mức thấp, đơn giản hơn là tưới trực tiếp vào tận gốc cây trồng (nhờ đường ống dẫn áp lực thấp - vòi nước mềm do công nhân điều khiển), đã được Trường Đại học Thủy lợi thiết kế, xây dựng áp dụng thử nghiệm trên quy mô khá rộng (hơn 200 ha) vào các năm 1993 đến năm 1995 tại khu dự án khoa học công nghệ “phát triển hệ sinh thái nông  nghiệp Phủ Quỳ- Nghệ An” trên đồi núi canh tác cây ăn quả (cam, quýt) rất khó khăn về nguồn nước, đất đai thoái hóa. ứng dụng và phát triển kết quả từ hệ thống tưới gốc dự án Phủ Quỳ - Nghệ An, một số cơ sở và nghiên cứu khác đã xây dựng tiếp hệ thống tưới loại này để tưới cho các cây ăn quả, cây công nghiệp như Trung tâm nghiên cứu cây ăn quả Phủ Quỳ - Nghệ An, một số nông trại canh tác cà phê ở Đăk lăk, Lâm Đồng, Sơn La,... và một số tưới gốc cho các vườn ươm cây rừng ở Vĩnh Phú, Lâm Đồng, Đăk Lăk, Gia Lai,...  hệ thống có hạn chế là độ bền,  tuổi thọ chưa cao do thiết bị đường ống không được sản xuất chuyên dùng.
Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam là đơn vị Khoa học Công nghệ của Ngành ở phía Nam đã xây dựng và thực hiện thành công, chuyển giao KHCN áp dụng thực nghiệm kỹ thuật tưới tiết kiệm nước tại các vườn cây công nghiệp (chè, cà phê, hồ tiêu, điều), cây ăn quả (nho, nhãn), các vườn trồng hoa, vườn ươm cây giống, rau màu xuất khẩu tại các tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Trị, Nghệ An,...vv.
Viện cũng đã nghiên cứu chế tạo thành công được 9 loại vòi (7 loại phun mưa, 1 loại phun sương, 1 loại nhỏ giọt) và bộ lọc nước. Các loại vòi chế tạo từ kết qủa nghiên cứu của Đề tài cấp nhà nước KC.08-09, vì vậy chúng tôi lấy số 09 làm phần đầu cho ký hiệu các loại vòi là sản phẩm mà đề tài nghiên cứu được. Các loại vòi được nghiên cứu chế tạo có ký hiệu như sau: (09-1): Vòi phun mưa kiểu búa đập bằng đồng; (09-2): Vòi phun mưa ngẫu lực 1 bên bằng animol; (09-3): Vòi phun mưa cố định bằng đồng; (09-4): Vòi phun mưa kiểu ngẫu lực 2 bên bằng nhựa; (09-5): Vòi phun mưa kiểu ngẫu lực 1 bên bằng nhựa; (09-6): Vòi phun sương bằng đồng; (09-7): Vòi tưới nhỏ giọt bằng nhựa; (09-8): Vòi phun mưa kiểu ngẫu lực 1 bên bằng nhựa và kim loại; (09-9): Vòi phun mưa kiểu ngẫu lực 3 cánh quay bằng đồng; và (TN-99) : Bộ lọc nước (bằng nhựa, lưới thép).
Đây là những thiết bị tưới tiết kiệm nước đầu  tiên được sản xuất trong nước, có thể chủ động sản xuất cung ứng cho yêu cầu của công nghệ, kỹ thuật tưới tiết kiệm nước. Các loại vòi này đã qua kiểm định, cho thấy tương đương với vòi ngoại về tính năng, tác dụng, mà giá thành chỉ bằng khoảng 1/3 so với vòi nhập ngoại.

Bảng 1:  So sánh các yếu tố kinh tế - kỹ thuật giữa vòi chế tạo trong nước với vòi nhập ngoại

 

TT
Vòi
Áp suất
Lưu lượng
Bán kính phun
Mức độ dòng đều
Hạt
Giá Thành

( at )
( q )
R ( m )


103 đ
1
09 - 1
1 - 2,5
12 - 25 l/ph
7 - 10,0
Đều
Lớn
25
Nhập ngoại
1 - 3,0
12 - 27 l/ph
7 - 12,0

Đều
Lớn
60
2
09 - 2
1 - 2,0
5 -7,0 l/ph
3,8 - 4,8

Đều
Vừa
14
Nhập ngoại
1 - 2,2
5 - 7,5 l/ph
3,8 - 5,0
Đều

Vừa
32
3
09 - 3
1 - 2,0
9 - 12,0 l/ph
3,7 - 4,5
Khá

Vừa
5
Nhập ngoại
1 - 2,0
9 - 12,4 l/ph
3,7 - 4,7
Khá

Vừa
14
4
09 - 4
0,7 - 1,8
11 - 17 l/ph
3,6 - 4,6
Đều
Lớn
4
Nhập ngoại
0,7 - 2,0
11 - 18 l/ph
3,7 - 4,8

Đều
Lớn
10
5
09 - 5
0,7 - 1,6
2,0 - 3,5 l/ph
2,0 - 4,0

Đều
Vừa
1
Nhập ngoại
0,7 - 1,8
2,2 - 4,0 l/ph
2,3 - 4,2
Đều
Vừa
4
6
09 - 6
0,7 - 2,0
10 -18,0 l/h
0,8 - 2,0

Đều
sương
1,5
Nhập ngoại
0,7 - 2,0
15 -20,0 l/h
0,9 - 2,2

Đều

sương

5
7
09 - 7
0,1 - 0,5
1 - 2 l/h


Nhỏ giọt
0,5
Nhập ngoại
0,3 - 0,6
1 - 2,5 l/h


Nhỏ giọt
2
8
09- 8
1- 2
12 -15 l/ph
4,8 - 5,2

Đều
Vừa
22

Nhập ngoại
1 - 2,2
12 -17 l/ph
4,8 - 5,4

Đều
Vừa
60
9
09 - 9
1- 2
14 - 20 l/ph
5,6 - 6,6

Đều
Vừa
32

Nhập ngoại
1- 2,1
14 - 22 l/ph
5,6 - 6,8

Đều
Vừa
90

Các loại vòi trên do Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam chế tạo thành công đã ứng dụng lắp đặt vào các mô hình tưới tiết kiệm nước tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng,  Nghệ An, Quảng Trị, Yên Bái, Lạng Sơn, Hà Nội, Tp. HCM... được bà con rất hoan nghênh và đánh giá tốt.
 IV. Các phương pháp, kỹ thuật tưới tiết kiệm nước thông dụng cho các vùng khan hiếm nước ở việt nam.
1.Tưới nhỏ giọt
Tưới nhỏ giọt (Drip Irrigation/Strickle Irrigation) là một dạng cơ bản của kỹ thuật tưới tiết kiệm nước (hay vi tưới micro irrigation). Đây là hình thức đưa nước trực tiếp trên mặt đất đến vùng gốc cây trồng một cách liên tục dưới dạng từng giọt nhờ các thiết bị đặc trưng là các vòi tạo giọt (được cấp nước bởi hệ thống đường ống dẫn cấp nước áp lực).
* Các ưu điểm :
- Tưới nhỏ giọt đảm bảo phân bố độ ẩm đều trong tầng đất canh tác (phần có bộ rễ cây trồng) tạo nên điều kiện thuận lợi về chế độ không khí, nhiệt độ, độ ẩm, chế độ tiêu hóa thức ăn và quang hợp cho cây trồng.
- Cung cấp nước một cách đều đặn nhưng tránh được hiện tượng tập trung muối trong nước và trong đất, khắc phục được hiện tượng bạc màu, rửa trôi đất trên đồng ruộng.
- Tưới nhỏ giọt tiết kiệm nước đến mức tối đa (hơn cả ở tưới phun mưa) vì nó tránh triệt tiêu đến mức tối thiểu các loại tổn thất nước (do thấm và bốc hơi), ở hệ thống tưới nhỏ giọt đất tưới cũng được tiết kiệm tối đa.
- Không gây ra xói mòn đất, không tạo nên váng đất đọng trên bề mặt và không phá vỡ cấu tượng đất do tưới nhỏ giọt được thực hiện một cách liên tục với mức tưới rất nhỏ dưới dạng từng giọt.
- Đảm bảo năng suất tưới, năng suất lao động được nâng cao không ngừng vì có khả năng cơ khí hóa, tự động hóa cao độ khâu nước tưới. Tạo điều kiện cơ giới, tự động hóa thực hiện tốt một số khâu khác như: phun thuốc trừ sâu, bón phân hóa học kết hợp tưới nước.
- Việc thực hiện tưới nhỏ giọt thực tế đã rất ít phụ thuộc vào các yếu tố thiên nhiên : độ dốc địa hình, thành phần và cấu trúc đất tưới, mực nước ngầm ở nông hay sâu, điều kiện nhiệt độ và không bị chi phối bởi ảnh hưởng của gió như là tưới phun mưa và có thể thực hiện tưới liên tục suốt ngày đêm.
- Kỹ thuật tưới nhỏ giọt sử dụng cột nước áp lực làm việc thấp và lưu lượng nhỏ nên tiết kiệm năng lượng giảm chi phí quản lý vận hành. Nói chung áp lực tưới nhỏ giọt chỉ bằng 10% - 15% ở tưới phun mưa và lượng nước bơm lại ít hơn 70% - 80%.
- Tưới nhỏ giọt đã góp phần ngăn chặn được sự phát triển của cỏ dại quanh gốc cây và sâu bệnh, vì nước tưới chỉ làm ẩm quanh gốc cây.
- Kỹ thuật tưới tiết kiệm nước cho phép cung cấp nước trực tiếp đến tận rễ cây và khống chế phân bố độ ẩm vùng hoạt động của bộ rễ cây nên rất tiết kiệm nước tưới. Thực tế kỹ thuật tưới này dùng nước ít hao từ 20 - 30% so với tưới phun mưa toàn bộ, thậm chí có thể tiết kiệm từ 50 đến 80% so với kỹ thuật tưới thông thường.
- Cung cấp nước thường xuyên, tạo ra môi trường ẩm trong đất gần độ ẩm tối đa đồng ruộng. Lượng nước tưới có thể được khống chế và điều khiển dễ dàng để bảo đảm nước tưới được phân bố đều trong vùng đất có bộ rễ hoạt động, duy trì chế độ ẩm thích hợp theo nhu cầu sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Nhờ khả năng cung cấp nước và chất dinh dưỡng trực tiếp tới rễ cây nên cây trồng sinh trưởng, phát triển nhanh, đạt năng suất cao.
* Các nhược điểm:
- Nhược điểm chủ yếu là dễ gây ra sự tắc bí (nước khó thoát) tại các vòi tạo giọt và ống nhỏ giọt, các đường ống dẫn trong các thiết bị tạo giọt dễ bị tắc do bùn cát, rong tảo, tạp chất hữu cơ, các chất dinh dưỡng không hòa tan, các chất keo và cacbonnatcanxi kết tủa. Sự tắc bí này đã gây tốn công sức xử lý khắc phục và yêu cầu phải xử lý nước trong sạch (qua hệ thống lọc).
- Khác với kỹ thuật tưới phun mưa, ở tưới nhỏ giọt không có khả năng làm mát cây, cải tạo vi khí hậu, không có khả năng rửa lá cây. Tác dụng cải tạo tiểu khí hậu đồng ruộng bị hạn chế.
Vốn đầu tư trong xây dựng tương đối cao và đòi hỏi phải có trình độ trong xây dựng và quản lý.
- Trong một số trường hợp, sự phân bố độ ẩm tưới bị thiếu và không đồng đều ở khối đất canh tác chứa bộ rễ cây.
- Nếu việc tưới nhỏ giọt bị gián đoạn, chững lại thì cây trồng sẽ xấu đi nhiều hơn so với phương pháp tưới thông thường.
2. Tưới phun mưa
Kỹ thuật tưới phun mưa là kỹ thuật đưa nước tới cây trồng vào mặt ruộng dưới dạng mưa nhân tạo nhờ các thiết bị tạo dòng phun mưa (tia mưa) thích hợp. Phương pháp này ngày càng được phổ biến và áp dụng rộng rãi, nhất là tại các nước có nền công nghiệp phát triển.
* Ưu điểm :
- Hiệu quả sử dụng rất cao vì hạn chế cao độ tổn thất nước do bốc hơi vì tia phun ngắn, cường độ phun mưa và diện tích - khoảng không gian làm ướt - có thể được điều chỉnh cho phù hợp sự tăng trưởng của cây trồng, không tạo nên dòng chảy mặt đất, không phá vỡ cấu tượng đất do hạt mưa nhỏ.
- Do toàn bộ hệ thống đường ống đặt ngầm nên tiết kiệm đất, thuận tiện việc chăm sóc, canh tác trên đồng ruộng. Mặt khác cũng dễ dàng tự động hóa từng phần hoặc toàn phần hệ thống tưới, như cơ khí hoá và tự động hóa phần thiết bị điều khiển, thiết bị tưới mặt ruộng hoặc điều khiển toàn bộ hệ thống từ xa theo chương trình lập sẵn nên tiết kiệm sức lao động và nâng cao năng suất tưới.
- Nâng cao năng suất tưới và năng suất các khâu canh tác nông nghiệp khác.
- Sử dụng áp lực làm việc loại trung bình và thấp, lưu lượng yêu cầu nhỏ nên tiết kiệm năng lượng và nguồn nước.
- Có tác dụng cải tạo vi khí hậu khu tưới.
- Hạn chế sâu bệnh, cỏ dại phát triển.
- Kết hợp được tưới nước với phun thuốc trừ sâu, bón phân hóa học.
- Rất phù hợp với các cây trồng mềm yếu (vườn hoa, vườn ươm, cây đang ra hoa, thụ phấn) và các cây trồng cao cấp trong nhà kính...vv.
*Nhược điểm :
- Vòi phun dễ bị tắc nghẽn (khi nước tưới có nhiều tạp chất), nhất là đối với các vòi phun sương mù (Mist Sdrayer) có các lỗ phun mưa rất nhỏ.
- Yêu cầu trình độ nhất định trong thiết kế xây dựng và quản lý.
- Vốn đầu tư ban đầu cao hơn so với các kỹ thuật tưới cổ điển.
- Các đường ống và thiết bị hay hư hỏng, dễ bị mất mát, phá hoại do con người và côn trùng tại mặt ruộng (điều này rất dễ xảy ra ở Việt Nam).
Ngoài tưới tiết kiệm nước bằng công nghệ nhỏ giọt và phun mưa, còn có các dạng tưới ngầm theo hình thức nước trong các ống đặt ngầm dưới đất theo các lỗ thấm ra ngoài, tuy dạng tưới này được xem là tương đối tốt hiện nay nhưng thiết bị đắt, lắp đặt vận hành và sửa chữa rất phức tạp nên trong bài viết này chúng tôi không đề cập ở đây.
 V. Cấu tạo và nguyên lý hoạt động của hệ thống tưới tiết kiệm nước.
1. Sơ đồ cơ bản của hệ thống tưới tiết kiệm nước  
Một hệ thống tưới tiết kiệm nước thường có 4 bộ phận chính :        
a). Công trình đầu mối : gồm máy bơm dùng hút nước từ hồ, ao, sông suối, kênh hoặc bể chứa hay giếng đào. Máy bơm thường dùng là các máy ly tâm có lưu lượng nhỏ và áp lực bơm từ thấp đến trung bình.
 b). Các thiết bị xử lý và điều khiển :
- Van kiểm tra dùng để điều chỉnh áp lực bảo vệ an toàn cho đường ống.
- Van điều chỉnh dùng chỉnh áp lực và lưu lượng trên hệ thống. Thường có 1 van tổng ở đầu hệ thống và một số van đặt tại đầu các đường ống nhánh hoặc đầu các ống cấp dưới.
- Thùng chứa để hoà tan chất dinh dưỡng hoặc hóa chất như phân bón, thuốc trừ sâu. Thùng này có áp lực nhỏ với một đầu vào và một đầu ra.
- Thiết bị lọc sạch nước có thể là một tấm lưới hay ống lọc có đường kính mắt lưới tùy theo yêu cầu của thiết bị tưới, cũng có thể là một bể lọc ngược. Thiết bị lọc nước là một bộ phận quan trọng và đặc trưng của hệ thống tưới tiết kiệm nước.
c). Đường ống áp lực : ống áp lực gồm ống chính, ống nhánh các cấp. Đường ống chính nối các đường ống nhánh với công trình đầu mối. Đường ống tưới nối với đường ống nhánh cấp cuối cùng. Vật liệu làm ống có thể là thép, nhựa PVC, xi măng, Polyetylen...vv thông dụng nhất vẫn là PVC, Pe...vv.             
d). Thiết bị tưới  : Thiết bị tưới rất đa dạng và không ngừng được  hoàn  thiện. Thiết bị tưới có thể là các đoạn ống nhỏ, chùm ống nhỏ, ống có đục lỗ (vách đơn hoặc vách kép), thiết bị tạo giọt, thiết bị phun mưa, phun sương để lộ thiên hoặc đặt ngầm dưới mặt đất.
2. Giải pháp tưới hợp lý của kỹ thuật tưới tiết kiệm nước.
Giải pháp tưới hợp lý phải là một tổ hợp liên hoàn từ nguồn cho đến đối tượng tưới:
- Giải pháp nguồn : Ưu tiên thiết lập hệ thống hồ, đập để trữ nước tại chỗ, kể cả bể chứa, ao trữ theo khe suối và cả trên lưng chừng đồi, đỉnh đồi.
- Giải pháp chuyển nước : nên chuyển nước bằng đường ống và bơm động lực nhằm đưa nước lên đúng cao trình cần tưới với tổn thất là nhỏ nhất.
- Giải pháp tưới : tập trung tưới theo phương pháp tiết kiệm nước như phun mưa nhỏ và trung bình (áp lực phun trung bình), nhỏ giọt.
Trong các giải pháp trên cần ưu tiên ứng dụng kỹ thuật về vật liệu như bể chứa beton, túi PVC, ống dẫn PVC, HDPE, cừ bêton bản mỏng ứng suất trước, vải địa chất để tạo thành các kho chứa nước trên mọi địa hình, dẫn nước đến mọi vị trí cần tưới với mức hao hụt là ít nhất.
Về nguồn nước tưới, nói chung chúng ta vẫn quen sử dụng hai nguồn chính là nguồn nước mặt và nguồn nước ngầm. Nguồn nước mặt bao gồm nước trên các dòng sông, suối và nguồn được trữ lại tại các ao hồ. Nguồn nước ngầm được khai thác thông qua các giếng khoan, độ sâu giếng khoan tùy thuộc vào từng vùng địa lý. Đối với các vùng thiếu nước, cần phải tính toán một kế hoạch dùng nước chặt chẽ cho các thành phần kinh tế trong khu vực, nhằm sử dụng hiệu qủa nguồn nước cho phát triển kinh tế của vùng, ngoài ra cũng rất cần các biện pháp phụ trợ như trồng và khôi phục các khu rừng, tăng cường giữ nước tại chỗ, hạn chế tối đa việc làm giảm thấp qúa mức mực nước ngầm của khu vực. Ngăn chặn các nguồn vật chất có thể gây ô nhiễm nguồn nước. Sử dụng các biện pháp công trình để giảm thiểu tối đa các qúa trình thất thoát nguồn nước.
Về giải pháp sử dụng nguồn nước tại những vùng khan hiếm nước, phải đạt hai mục tiêu là tiết kiệm và hiệu qủa cao, như vậy có thể thấy rằng giải pháp tưới cổ truyền là không còn phù hợp do sự hao phí nước quá lớn, chỉ có giải pháp duy nhất đúng là tưới tiết kiệm nước mới có thể đạt mục tiêu đề ra, đồng thời kết hợp với một chế độ tưới hợp lý cho cây trồng chắc chắn sẽ mang lại hiệu qủa cao trong việc sử dụng nước cho canh tác nông nghiệp. Có nhiều giải pháp tưới trong công nghệ tưới tiết kiệm nước như tưới thấm, tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa tự động, tưới phun mưa cầm tay ...vv nhưng mục tiêu chung vẫn là hao hụt thất thoát từ nguồn đến đối tượng tưới là ít nhất và đem đến một lượng nước đủ nhu cầu phát triển tối ưu cho cây trồng.
3. Nguyên lý hoạt động của kỹ thuật tưới tiết kiệm nước.
Khi được cung cấp nước, áp lực nước sẽ chảy qua van kiểm tra, van điều chỉnh rồi vào thùng chứa và hòa tan chất dinh dưỡng dưới một áp lực thích hợp. Một phần dòng chảy hướng xuyên qua thùng. Nếu trong thùng có chứa phân bón hoặc thuốc trừ sâu hòa tan thì dòng chảy sẽ hòa lẫn và mang theo chất đó ra khỏi thùng và chảy vào đường ống chính. Nước được lọc sạch khi qua thiết bị lọc.
Tùy theo nhu cầu sử dụng nước mà người quản lý hệ thống điều chỉnh lưu lượng, áp lực thông qua van khống chế tại đầu các đường ống. Nước có áp chuyển động trong các đường ống đến các thiết bị tưới để cung cấp cho cây trồng.
Tùy theo cấu tạo và chức năng khác nhau của từng thiết bị tưới mà nước được cung cấp, phân phối cho cây trồng theo các hình thức và phạm vi khác nhau. Các ống tưới nhỏ, chùm ống nhỏ, ống đục lỗ, thiết bị tạo giọt tạo ra các giọt nước hay rỉ ra với lưu lượng nhỏ không đổi dưới áp lực không khí hoặc gần với áp lực không khí. Thiết bị tưới phun mưa khi có dòng nước áp lực đi đến đập vào mặt chắn hay cánh quay sẽ phân xé dòng nước phun ra không khí ở dạng các hạt mưa nhỏ.
Tóm lại, nguyên lý cơ bản của kỹ thuật tưới tiết kiệm nước là đưa lượng nước rất hạn chế tập trung vào vùng rễ cây thông qua những thiết bị tinh vi được đặt trên hoặc dưới mặt đất như các lỗ, vòi phun hoặc thiết bị tạo giọt.
 VI. Phạm vi áp dụng và hiệu quả của công nghệ kỹ thuật tưới tiết kiệm nước.
1. Phạm vi áp dụng
Kỹ thuật tưới tiết kiệm nước nhìn chung chỉ thích hợp đối với cây trồng cạn, như các loại cây công nghiệp, vườn cây ăn quả, các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao được trồng theo hàng. Kỹ thuật này có thể áp dụng cho mọi vùng khí hậu, trên mọi loại địa hình và thổ nhưỡng khác nhau. Đặc biệt là các vùng thiếu nước, vùng đất dốc, đất cát, sa mạc, vùng đất bị nhiễm mặn..vv.
Mỗi loại kỹ thuật tưới tiết kiệm nước có những phạm vi áp dụng nhất định, kỹ thuật tưới nhỏ giọt thích hợp nhất khi tưới cho cây công nghiệp và cây ăn quả trồng theo hàng trên đất có tính thấm nước kém (đất nặng). Tưới phun mưa thường được áp dụng cho cây trồng mà yêu cầu tưới phun vào thân và lá như chè, các loại rau màu...vv. Kỹ thuật tưới phun mưa cục bộ thích hợp nhất khi tưới cho các loại hoa, rau màu, cây ở vườn ươm trong nhà kính và ngoài đồng ruộng, cây ăn quả trồng dày không theo hàng trên đất có tính thấm trung bình và thấm lớn ...vv.
Về mặt địa hình việc ứng dụng kỹ thuật tưới tiết kiệm nước đặc biệt hiệu quả cho vùng đất đồi, vùng núi cao nguyên, các vùng khan hiếm nước ở Việt Nam nhằm chống được các tổn thất về ngấm và xói. Trong thực tiễn, chúng ta cũng không thể làm hệ thống kênh, mương trên các triền đồi dốc ở vùng núi và cao nguyên được, đây chính là lợi thế để công nghệ tưới tiết kiệm nước phát huy được điểm mạnh của nó.
Ngoài ra tưới tiết kiệm nước có thể sử dụng hiệu ích cho nền kinh tế vườn của mọi gia đình, vừa đảm bảo các sản phẩm rau quả cho gia đình, vừa cải tạo vi khí hậu trong mùa khô cho khu nhà ở, điều này càng có ý nghĩa với một số vùng khan hiếm nước ở Việt Nam. Hoàn toàn có thể cải tạo khí hậu, môi trường cảnh quan của khu vườn trong mùa khô hanh nhờ biện pháp tưới phun mưa, nhỏ giọt tiết kiệm nước.
Kỹ thuật tưới tiết kiệm nước được ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn trên các vùng sản xuất ở nước ta. Viện Khoa học Thuỷ lợi miền Nam đã áp dụng thành công kỹ thuật tưới tiết kiệm nước cho cây công nghiệp (chè, cà phê) tại các huyện Di Linh (cà phê), Bảo Lộc (chè) - tỉnh Lâm Đồng và tiến tới mở ra triển vọng áp dụng cho toàn vùng đất dốc Tây Nguyên.
Áp dụng kỹ thuật tưới tiết kiệm nước cho rau quả xuất khẩu tại Tp. Đà Lạt -Lâm Đồng, mô hình tưới nhỏ giọt cho cây Nho ở vùng khan hiếm nước Ninh Thuận, tưới cho cây Nhãn trên đất cát ven biển, tưới cho cây Điều ở Hải Lăng, cây Tiêu ở Vĩnh Linh - Quảng Trị...vv.
2. Hiệu quả kinh tế - xã hội của công nghệ tưới tiết kiệm nước
Giải pháp tưới khoa học, tiết kiệm nước là tối ưu cho các vùng khan hiếm nước, tuy nhiên hiện nay nhiều nơi còn chưa có điều kiện áp dụng rộng rãi ra đại trà, lý do chính là vấn đề kinh tế, thêm vào đó còn có những nguyên nhân khách quan như vấn đề xây dựng các vùng cây trồng chuyên canh, giải quyết tốt khâu tiêu thụ sản phẩm, chính sách hỗ trợ nông dân, tìm đầu ra cho sản phẩm...vv là những yếu tố tác động mạnh đến khả năng áp dụng kỹ thuật tưới kinh tế này.
Khi chúng ta tiết kiệm được nguồn nước tưới (hạn chế thất thoát, không tưới thừa nước, tưới hợp lý) chính là chúng ta đã đạt được hiệu qủa kinh tế cao cho một đơn vị nước tưới, do đó giải pháp tưới tiết kiệm nước không chỉ phù hợp cho vùng khan hiếm nước mà còn cho tất cả những nơi cần thiết nâng cao hiệu qủa sử dụng nguồn nước tưới.
Đưa kỹ thuật tưới tiết kiệm nước vào thực tế sản xuất nông nghiệp ngoài việc tiết kiệm nước tưới, công sức, năng lượng, nguyên vật liệu, tăng năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm, công nghệ tưới mới này sẽ góp phần phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại, làm thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn miền núi, vùng khô hạn nâng cao dần trình độ dân trí, đưa khoa học kỹ thuật tiếp cận với đời sống người dân, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi và miền xuôi.
 Bảng 2: Một số chỉ tiêu về tưới phun mưa cho cây chè
                                    - Địa điểm : Trung tâm nghiên cứu chè Bảo Lộc
                                    - Diện tích : Qui đổi 1ha
Phương pháp tưới
Thời gian tưới (phút)
Lượng nước tưới (m3)
Công tưới (công)
Độ ẩm đạt được
Tưới tiết kiệm
1,5 giờ
30
0,25
14 - 15%
Tưới cổ truyền
30 giờ
340
5,0
16 - 19%

Bảng 3 : Một số chỉ tiêu về tưới nhỏ giọt cho cây chè
                                    - Địa điểm : Phường 3 - Thị xã Bảo Lộc.
                                    - Diện tích : Qui đổi 1ha
Phương pháp tưới
Thời gian tưới (phút)
Lượng nước tưới (m3)
Công tưới (công)
Độ ẩm đạt được
Tưới tiết kiệm
24 giờ
27,5
0,0
14 - 16%
Tưới cổ truyền
30 giờ
340
5
20 - 22%

Bảng 4: Một số chỉ tiêu về tưới phun mưa cho cà phê
                                    - Địa điểm : Thị trấn Di Linh
                                    - Diện tích : Qui đổi 1ha
Phương pháp tưới
Thời gian tưới (phút)
Lượng nước tưới (m3)
Công tưới (công)
Độ ẩm đạt được
Tưới tiết kiệm
2,2 giờ
45
0,37
14 - 15%
Tưới cổ truyền
36 giờ
360
6
17 - 20%

Bảng 5: Một số chỉ tiêu về tưới nhỏ giọt cho cà phê
                                    - Địa điểm : Thị trấn Di Linh
                                    - Diện tích : Qui đổi 1ha

Phương pháp tưới
Thời gian tưới (phút)
Lượng nước tưới (m3)
Công tưới (công)
Độ ẩm đạt được
Tưới tiết kiệm
17 giờ
19
0,0
15 - 16%
Tưới cổ truyền
31 giờ
310
5,0
18 - 20%

Qua ứng dụng vào một số hộ nông dân, được bà con nhiệt liệt hoan nghênh và đồng tình ủng hộ, nhiều hộ gia đình với sự giúp đỡ về kỹ thuật của chuyên gia đã tự nguyện ứng dụng kỹ thuật tưới tiết kiệm nước trên mảnh đất canh tác của mình. Đây là một minh chứng cho tính hiệu qủa cao và tính thực tiễn của công nghệ này. Khẳng định hướng đi đúng và khả năng ứng dụng các công nghệ tưới tiết kiệm trong thời gian tới.
Hiệu quả kinh tế của tưới tiết kiệm nước là rõ ràng, chính người nông dân đã tự khẳng định điều đó, năng suất cao hơn, chất lượng sản phẩm tăng lên (điều này rất quan trọng đối với các loại cây có giá trị xuất khẩu như chè và cà phê). Tuy nhiên tưới tiết kiệm nước có mức đầu tư ban đầu lớn, thường là vượt quá khả năng kinh tế của người nông dân. Vì vậy hiện tại mới chỉ dừng lại ở đầu tư kỹ thuật tưới tiết kiệm nước cho những vùng có các loại cây trồng đặc trưng có giá trị kinh tế thương mại cao và ổn định cho thị trường nội địa và xuất khẩu như các loại cây công nghiệp cà phê, chè, các cây ăn trái như nho, xoài, thanh long và các loại rau, hoa qủa xuất khẩu...vv. Chưa có điều kiện áp dụng rộng rãi vào sản xuất đại trà cho các loại cây trồng khác. Chẳng hạn :
- Đối với cây chè, cà phê với giá cả đầu ra như hiện nay, đầu tư tưới tiết kiệm nước thực sự có hiệu quả.
- Vốn đầu tư ban đầu với công tác tưới cho cây trồng cạn theo phương pháp tưới tiết kiệm nước rất cao, đây là một khó khăn đối với nông dân nói chung hiện nay, vì vậy dù biết rằng hiệu quả là rõ ràng song cũng ngại đầu tư.
 VII. Kết luận :
Công nghệ kỹ thuật tưới tiết kiệm nước là tiết kiệm nước tưới, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và cải tạo đất, tiết kiệm đất canh tác, giảm sức lao động, tăng năng suất tưới, thuận lợi cho việc cơ giới hóa và tự động hóa, dễ thích ứng với nhiều loại cây trồng. Là công cụ giúp định lượng, quản lý tốt và kiểm soát được tổng lượng nước dùng. Điều này cho phép trong tương lai cải tiến được chính sách thủy lợi phí là điều quyết định cho việc tăng hiệu quả sử dụng nước. Khối lượng nước sử dụng sẽ tối ưu, các tác động xấu đến môi trường có liên quan sẽ giảm thiểu. Kỹ thuật tưới tiết kiệm nước mặc dù có tiềm năng rất lớn nhưng cần được nghiên cứu áp dụng thật cẩn thận. Đầu tư vốn và chi phí năng lượng là những yếu tố quan trọng cần được xem xét, tác động xã hội và khả năng của người nông dân sẽ là nhân tố chính trong quá trình triển khai. Để đảm bảo sự thành công của kết quả nghiên cứu, điều quan trọng là kỹ thuật tưới tiết kiệm nước phải được tiến hành phù hợp và song song với sự cải tiến tập quán nông học, sự hợp tác chặt chẽ của người nông dân. Đích cuối cùng của sản phẩm nghiên cứu là ứng dụng vào thực tế sản xuất và được sản xuất chấp nhận.
Đề nghị Nhà nước có chính sách ưu tiên cho nông dân vay vốn dài hạn với lãi suất thấp để bà con có điều kiện ứng dụng công nghệ kỹ thuật tưới tiết kiệm nước vào sản xuất. Đồng thời có thể giao cho các cơ quan khoa học phối hợp với ngành nhựa nghiên cứu chế tạo loại ống nhựa dẫn nước tưới cùng với các thiết bị ráp nối đường ống đơn giản, tiện lợi với giá rẻ hơn so với ống PVC đang dùng cho cấp nước sinh hoạt hiện nay thì chắc chắn người dân sẽ hoan nghênh và đón nhận sử dụng hệ thống tưới này. Đó chính là con đường thiết thực góp phần hiện đại hóa nền nông nghiệp nước nhà và nâng cao chất lượng sản phẩm phục vụ cho nội địa cũng như xuất khẩu. Sự ưu việt của phương pháp tưới tiết kiệm nước là đáp ứng kịp thời và đúng đắn yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn sản xuất trên các vùng khan hiếm nước ở Việt Nam hiện nay. Nhằm tiến tới mục tiêu từng bước hiện đại hóa nền nông nghiệp nước nhà, góp phần xây dựng nông thôn Việt Nam tiến lên theo hướng văn minh hiện đại.

Tài liệu tham khảo :
1.       Lê Sâm - Kỹ thuật tưới tiết kiệm nước - NXB Nông nghiệp 2002.
2.       Bùi Hiếu  - Kỹ thuật tưới nâng cao - Bài giảng Cao học, Đại học Thuỷ lợi 2004.
3.       Lê Sâm, Nguyễn Văn Lân, Phạm Xuân Thao - Nghiên cứu chế tạo vòi tưới tiết kiệm nước - Tuyển tập kết quả Khoa học Công nghệ Viện KHTL Miền Nam - NXB Nông nghiệp 2000.